Tư vấn tổ chức cuộc thi Minirobocon 2019 cho tỉnh Bình Phước

Cuộc thi nhằm kích hoạt sự sáng tạo, đam mê công nghệ của học sinh, sinh viên tỉnh Bình Phước.

Digital Immersion forum

Chia sẻ thuận lợi và thách thức trong quá trình chuyển đối số trong giáo dục tại diễn đàn "Digital Immersion forum" do dự án BUILD IT phối hợp đại học Arizona State University và Đại Học Công nghiệp Hà Nội tổ chức

Cuộc thi Shell Eco_marathon Europe tại London

Cuộc thi Shell eco_marathon tại London là một cuộc thi thiết kế xe tiết kiệm nhiên liệu dành cho học sinh, viên viên lớn nhất thế giới.

Tham gia khóa tập huấn tại Phần Lan

Khóa học phương pháp sư phạm số nằm trong khuôn khổ dự án EMVITET.

Tham gia tập huấn giáo dục 4.0 tại Phần Lan

Phần Lan là một đất nước có nền giáo dục phát triển hàng đầu thế giới.

Chủ Nhật, 17 tháng 10, 2021

Nguyên tắc thiết kế bài giảng đa phương tiện

Trong thập kỷ gần đây với các tiến bộ về khoa học công nghệ, có rất nhiều nhà Khoa học nghiên cứu phương pháp giáo dục đa phương tiện. Một trong những lý thuyết quang trọng trong thiết kế các bài giảng đa phương tiện là lý thuyết của Mayer [1].

1. Giả thuyết của lý thuyết nhận thức về đa phương tiện:

Giả Thuyết

Mô tả

Kênh kép

Con người có các kênh riêng biệt cho xử lý thông tin thị giác và thính giác

Hạn chế năng lực

Con người bị giới hạn về số lượng thông tin có thể được xử lý trong mỗi kênh cùng một lúc

Xử lý tích cực

Con người tham gia vào việc học tập tích cực bằng cách xử lý các thông tin được tiếp nhận, thông tin được chọn lọc sau đó liên kết với những thông tin được tiếp nhận trước đó để nhận biêt kiến thức

Giả thuyết 1: Con người sở hữu thông tin riêng biệt các kênh xử lý cho tài liệu được trình bày trực quan  (không gian và thính giác ) tài liệu  bằng lời nói. Mức độ phù hợp của giả định kênh kép lý thuyết nhận thức về học đa phương tiện nằm trong đề xuất rằng hệ thống xử lý thông tin của con người chứa một kênh thính giác ( lời nói) và một kênh hình ảnh (hình ảnh). Khi thông tin được trình bày trước mắt (chẳng hạn như hình minh họa, hoạt ảnh, video hoặc văn bản trên màn hình), con người bắt đầu bằng cách xử lý thông tin đó trong kênh trực quan; khi thông tin được đưa vào tai (chẳng hạn như tường thuật hoặc âm thanh không lời), con người bắt đầu bằng cách xử lý thông tin đó trong kênh thính giác. 

Giả thuyết 2: Con người bị giới hạn về số lượng thông tin có thể được xử lý trong mỗi kênh tại một thời điểm. Khi một minh họa hoặc hình ảnh động được trình bày, người học chỉ có thể giữ một vài hình ảnh trong kênh trực quan của bộ nhớ làm việc tại bất kỳ thời điểm nào.

Giả thuyết thứ ba :Con người tích cực tham gia vào quá trình xử lý nhận thức để xây dựng kiến thức nhất quán về trải nghiệm của họ. Các quá trình nhận thức tích cực này bao gồm chú ý đến thông tin tiếp nhận có liên quan, tổ chức thông tin tiếp nhận thành một nhận thức mạch lạc cấu trúc và tích hợp thông tin tiếp nhận với các kiến ​​thức khác.  Quan điểm này coi con người là bộ xử lý tích cực kết hợp với quan điểm xem con người là bộ xử lý thụ động tìm cách thêm càng nhiều thông tin vào bộ nhớ càng tốt, nghĩa là con người như là máy ghi âm, các bản sao của trải nghiệm của con người được lưu vào  bộ nhớ để được truy xuất sau này.


Hình 1. Mô hình học tập đa phương tiện của Mayer [2]

Dựa trên các giả thuyết và các phân tích về nhận thức của não bộ Mayer đã đưa ra các nguyên tắc thiết kế bài giảng đa phương tiện được trình bày ở mục 2.

2. Các nguyên tắc thiết kế bài giảng đa phương tiện:

Giảm tải: Trí nhớ ngắn hạn của con người chỉ thực sự hoạt động tích cực trong khoảng thời gian ngắn từ 03 đến 05 phút.  Do đó  khi lượng thông tin  trong một khoảng thời gian ngắn quá nhiều mà không liên quan đến chủ đề của bài học sẽ làm cho não bộ khó tiếp thu. Theo đó, con người thực sự tiếp thu bài học một cách hiệu quả khi những từ ngữ, hình ảnh, âm thanh tạp không liên quan đến bài học được loại bỏ, các chữ và hình ảnh tương ứng được trình bày gần nhau và được đánh dấu những thông tin quang trọng.

Kiểm soát mức độ khó: Mayer cũng chỉ ra rằng bài học đa phương tiện cần được phân đoạn để phù hợp với nhịp độ của người học, những lý thuyết thiên về mức nhớ hoặc hiểu ( Các khái niệm, nguyến lý) người học được tìm hiểu trước. Người học sẽ học tốt hơn khi bài giảng đa phương tiên được thiết kế đồ họa và diễn giải bằng lời thay vì đồ họa và văn bản trên màn hình, các kênh chữ và đồ họa được kết hợp với nhau thay vì kênh chữ và kênh đồ họa riêng lẽ.

Tăng thông tin: Tăng những thông tin làm cho người học hiểu được vấn đề cần học. Theo đó, Mayer đã đưa ra những nguyên tắc tăng thông tin như là: Nguyên tắc giọng nói (Không nên sử dụng giọng nói không phải của con người), nguyên tắc cá nhân hóa, nguyên tắc phản hồi và nguyên tắc tự ngẫm

Theo tôi, khi thiết kế bài giảng đa phương tiện dựa trên những nguyên tắc của Mayer sẽ làm tăng sự hứng thú của người học. Các bài giảng đa phương tiện trở nên ngắn gọn, dễ hiểu và đi vào trọng tâm của vấn đề.  Việc phân đoạn và cá nhân hóa sẽ khuyến khích người học tích cực tham gia vào các bài giảng đa phương tiện bởi vì các bài giảng được phân đoạn thành những đoạn ngắn người học tự lựa chọn các bài giảng phù hợp với nguyện vọng và nhu cầu cá nhân. Bên cạnh đó nguyên tắc phản hồi và nguyên tắc tự ngẫm khuyến khích người học tự tổng hợp các kiến thức và tạo ra kiến thức mới từ đó hình thành tư duy phản biện và thói quen tự học của người học.

Tài liệu tham khảo: 
[1]Mayer, R. E. (2014). Incorporating motivation into multimedia learning. Learning and instruction, 29, 171-173.

Thứ Sáu, 8 tháng 10, 2021

Thí nghiệm thang đo PH

  • Xác định một dung dịch có tính acid, base hay trung tính
  • Xếp thứ tự các acid và baz theo tính acid/base
  • Tìm mối liên hệ giữa màu sắc chất lỏng và pH
  • Tiên đoán ảnh hưởng của việc pha loãng dung dịch và thể tích chất lỏng đối với pH của acid/base

Chủ Nhật, 3 tháng 10, 2021

Thí nghiệm Điện Cơ Bản ảo

Bộ Thí nghiệm ảo bao gổm bóng đèn tròn, dây dẫn, nguồn và công tắc. Các bài thí nghiệm có thể thực hiện: 
Bài 1: Công tắc đơn; 
Bài 2: Mắc nối tiếp;
 Bài 3: Mắc song song; 
Bài 4: Đo cường độ dòng điện và đo điện áp.
 

Thứ Bảy, 2 tháng 10, 2021

Phương pháp thiết kế bài giảng trực tuyến.

 Bài viết này trình bày các khái niệm và phương pháp thiết kế một khóa học trực tuyến. Giáo dục trực tuyến từ xa  được định nghĩa là phương thức học ảo thông qua máy vi tính, điện thoại thông minh, máy tính bảng được nối mạng với một máy chủ ở nơi khác có lưu giữ sẵn bài giảng điện tử và phần mềm cần thiết để có thể tạo các câu hỏi tương tác, các bài tập, môi trường thảo luận ảo, môi trường tương tác trực tuyến thông qua công cụ kỹ thuật số và ra đề thi cho người học học trực tuyến từ xa. Theo Để thiết kế các khóa học trực tuyến người dạy cần tuân thủ các bước như hình 1. Tuy nhiên trong môi trường đại học khi mà các khóa học đã được thiết kế dựa trên chương trình đào tạo trực tiếp khi chuyên đổi qua mô hình đào tạo trực tuyến hoàn toàn nên ở bước phân tích người dạy cần phân tích và xác định lại nội dung cho phù hợp với các hoạt động tương tác trực tuyến. Bên cạnh đó việc xây dựng kế hoạch giảng dạy phụ thuộc vào nền tảng số và kỹ năng số của cơ sở giáo dục. Do đó, ở bước này người dạy lên kế hoạch hoạt động trực tuyến cần lưu ý lựa chọn công cụ số phù hợp với phương pháp sư phạm và nền tảng công nghệ số.


Hình 1. Các bước thiết kế khóa học trực tuyến [1,2]

Để thiết kế các hoạt động tương tác phù hợp trong các khóa học trực tuyến cần  hiểu rõ các loại hình  đào tạo trực tuyến. Đào tạo trực tuyến có hai loại hình đó là loại hình đào tạo trực tuyến đồng thời và đào tạo không đồng thời. Tính chât của từng loại được thể hiện như hình 2 và hình 3.


Hình 2. Đặc tính của loại hình học tập trực tuyến đồng thời


Hình 3. Đặc tính của loại hình học tập trực tuyến không đồng thời


Từ đặc tính của các loại hình trực tuyến kế hoạch thiết kế một khóa học trực tuyến được trình bày như hình 4. 
 

Hình 4. Kế hoạch giảng dạy trực tuyến kết hợp tương tác đồng thời và không đồng thời.

Bài viết trình bày các bước thiết kế khóa học trực tuyến, và giới thiệu một kế hoạch ngắn gọn trong thiết kế khóa học trực tuyến. Tuy nhiên, rào cản lớn trong thiết kế và triển khai các khóa học trực tuyến đó là nền tảng công nghệ số, cơ sở hạ tầng internet và kỹ năng số của người dạy và người học. Tôi nghĩ rằng với việc thường xuyên thiết kế các khóa học trực tuyến và quá trình tự học của người dạy và người học thách thức về kỹ năng số của người dạy ngày càng thu hẹp. Quá trình chuyển đổi này sẽ dần hình thành kỹ năng số cho người dạy và người học.
Tài liệu tham khảo:
[1] https://tapchigiaoduc.moet.gov.vn/vi/magazine/481-ki-i-thang-7/4-tich-hop-phuong-phap-su-pham-so-trong-hoat-dong-day-va-hoc-tien-den-nen-giao-duc-4-0-7574.html
[2]Trentin, G. (2001). Designing online education courses. Computers in the Schools, 17(3-4), 47-66.


Thứ Năm, 9 tháng 9, 2021

Hệ thống nông quang điện - Sự kết hợp bền vững giữa sản xuất điện và nông nghiệp

Bài viết giải thích hệ thống nộng quang điện và phân tích tiềm năng cũng như khả năng áp dụng hệ thống nông quang điện tại Việt Nam nói chung và Bình Phước nói riêng.

Nguồn: https://skhcn.binhphuoc.gov.vn/co-so-du-lieu-kh-cn/ban-tin-kh-cn/so-06-07-2021/he-thong-nong-quang-%C4%91ien-su-ket-hop-ben-vung-giua.aspx.

 






Thứ Năm, 7 tháng 1, 2021

Techno-Economic Analysis of Grid Connected Photo-Voltaic Power Plant in Vietnam

 This paper presents the important parameters of the grid-connected photovoltaic power plant located in Vietnam including energy production, the number of photovoltaic panels (PV), and the number of inverters. In this study, The PV Syt software is used for simulation. Besides, the project 1 MW installed capacity of a grid-connected photovoltaic system, and the solar radiation of 63 locations in Vietnam is considered for simulation. Furthermore, an economic model was proposed to identify the Net Present Value (NPV), Internal Rate of Return (IRR), Levelized Cost of Energy (LCOE), and payback years (PB).

The result showed that the yield of the photovoltaic solar plant is within in the range from 1100 to 1631 MW per year the LCOE ranges between 0.0289 and 0.0396 USD/kWh. In addition, based on the law of Vietnam the price to sell of electricity production to EVN was 9.35 cents, the NVP in Southern Vietnam was significantly positive, ranging between $120.350 and $437,268, and the Payback years fluctuated from 7 to 11 years.

link: https://link.springer.com/chapter/10.1007/978-3-030-62324-1_19